Quê hương
Quê hương là nơi sinh ra và lớn lên của một con người, nơi
gói ghém những kỷ niệm của thời thơ ấu. Sau này, dù đi xa
đến đâu, dù ở cương vị nào, người ta vẫn nhớ đến quê hương,
cho dù nó còn vất vả nghèo khó. Nói đến quê hương, người ta
nhớ ngay đến sự ấm cúng gia đình, đến những con đường đi qua
hàng ngày, đến những bãi cỏ đá bóng hay đá cầu xưa kia, đến
những bài hát những câu chuyện rất riêng, rất đặc thù. Tình
cảm cho quê hương rất khó định nghĩa mà người ta chỉ cảm
được thôi. Ðặc biệt là khi họ xa nhà hay sau một chuyến đi
xa trở về.
Càng
xa quê, người ta càng hiểu và thông cảm với quê hương hơn.
Người ta theo dõi từng bước phát triển , từng thay đổi của
quê hương để cùng mừng, cùng lo với quê hương. Nhưng không
phải ai cũng có một quê hương rõ ràng để thương để nhớ. Ví
dụ như trường hợp của Elisabeth dưới đây:
Khi đại chiến thế giới thứ 2 kết thúc, Elisabeth mới 11
tuổi. Mẹ em phải một mình nuôi 5 đứa con, em là đứa lớn
nhất. Bố em là tù binh Ðức bị Nga bắt ở Xiberi. Vùng đất
Oberschlesien bị hồng quân Liên xô chiếm quá nhanh nên gia
đình em không thể chạy trốn được. Một năm sau chiến tranh,
bố em bệnh rất nặng nên được thả về và ông đã mất vài năm
sau đó. Mẹ em có cái tên nghe như tên Slavơ nên, cũng như
rất nhiều người Ðức khác ở vùng Oberschlesien, bị chính
quyền Balan ép phải ký vào bản cam kết trung thành với nhà
nước Balan. Bà đã ký vì mong muốn cho những đứa con bà được
yên ổn. Sau này, Elisabeth học ở một trường thương nghiệp.
Cô đã lập gia đình năm 1954. Nhưng đối với những người hàng
xóm Balan, anh chị em cô là người Ðức. Người ta biết rất rõ,
bố và ông cô đều đã từng là lính Ðức. Bất cứ ở đâu, gia đình
cô cũng bị họ coi là phát xít, cũng bởi vì Balan là một
trong những nước chịu quá nhiều đau khổ của cuộc chiến do
Hitler gây ra. Gia đình cô phải chịu đủ thứ thiệt thòi, ví
dụ nhiều năm không được mua đường. Cô chỉ được phép nói
tiếng Ðức ở trong nhà, còn ở tất cả các nơi khác cô phải nói
tiếng Balan. Khi đứa con gái thứ 3 của cô ra đời, nhân viên
phòng hộ tịch hỏi tên đứa bé. Cháu tên là Ingrid – cô trả
lời. Anh nhân viên nói :” Thế thì không được, đấy không phải
là tên Balan mà là tên Ðức”, và cháu phải mang tên Eva.
Từ
năm 1959, gia đình Elisabeth liên tục đặt đơn xuất ngoại,
nhưng đều bị khước từ. Sau khi thoả thuận với vợ, chồng cô
đã ở lại CHLB Ðức nhờ một chuyến du lịch năm 1977. Mãi đến
năm 1981, Elisabeth cùng 2 con nhỏ mới được đoàn tụ với
chồng. Cô được nhận vào làm việc ở một xưởng in vùng hạ lưu
sông Rhein. Các con cô đến trường, nhưng bị các học sinh
khác miệt thị là Polak. Claudia, đứa út của cô, không bao
giờ được cô giáo quan tâm vì cô giáo cho rằng”Ðằng nào nó
cũng không biết tiếng Ðức mà”. Elisabeth chịu đựng hết nổi.
Cô trực tiếp đến trường như một con sư tử cái có bổn phận
bảo vệ con mình. Sau khi kể xong hoàn cảnh của mình, chị
hỏi:”Các bạn nghĩ thế nào, nếu các bạn sống ở một nước khác
và bị đối xử như các bạn đã đối xử với Claudia như thế
này?”- Bọn trẻ hoàn toàn im lặng, và từ đấy tình hình có khá
hơn.
Câu
chuyện của Elisabeth kể chỉ là một trong vô vàn số phận
những người Ðức khác từ các nước Ðông Âu trở về. Họ đã đánh
mất quê hương. Họ là người Ðức, nhưng rất xa lạ trên chính
đất Ðức!
Quê
hương Việt nam của chúng ta xa tít, còn nhiều gian truân cực
nhọc, nhưng nó là nơi để ta nâng niu tưởng nhớ. Làm điều gì
đấy cho quê hương là trách nhiệm, bổn phận và cũng chính là
vinh dự thiêng liêng của mỗi công dân Việt nam, là một lẽ
không cần bàn cãi.
Từ ngữ:
gói ghém:
che đậy cho không lộ ra. Gói ghém kỷ niệm: chứa đựng những
kỷ niệm , nơi có những kỷ niệm
thời thơ ấu:
thời niên thiếu, thời chưa trưởng thành, tuổi học sinh phổ
thông
cương vị:
vị trí xã hội, vị trí trong một tập thể, một cộng đồng.
Cương vị giám đốc, cương vị thày giáo ...
ấm cúng:
cảm thấy được che chở, cảm thấy hạnh phúc
đá cầu:
một trò chơi của thiếu nhi Việt nam. Quả cầu được làm bằng
đồng xu có đuôi giấy. Các em đá truyền cho nhau sao cho cầu
không rơi xuống đất.
thông cảm:
hiểu và đồng cảm với hoàn cảnh của ai đó
đại chiến thế giới:
cuộc chiến tranh lôi kéo phần lớn các nước trên thế giới
tham gia. Ðã có 2 đại chiến thế giới xảy ra: Ðại chiến thế
giới lần thứ nhất từ 1914 – 1918. Ðại chiến thế giới lần thứ
2 từ 1939- 1945.
tù binh:
lính của bên này bị phía bên kia bắt trong chiến trận. Ví dụ
:ï Bọn phát xít đưa tù binh Nga về Buchenwald để thủ tiêu.
ép:
cưỡng bức, bắt phải làm dù không muốn
cam kết:
hứa sẽ thực hiện, đồng ý làm như thoả thuận
thương nghiệp:
ngành kinh tế buôn bán. Nội thương: buôn bán trong nước,
ngoại thương: buôn bán với nước ngoài.
phòng hộ tịch:
nơi đăng ký hộ khẩu của một thành phố, thị trấn ...
đơn xuất ngoại:
đơn xin định cư ở nước ngoài, sinh sống ở nước ngoài.
khước từ:
không đồng ý, không duyệt, không cho phép, không chấp nhận
đoàn tụ:
chung sống cùng, đoàn tụ gia đình: gia đình sống sum họp
miệt thị:
nhìn bằng con mắt khinh thường, không tôn trọng
bổn phận:
trách nhiệm phải làm, nghĩa vụ phải làm
vô vàn:
rất nhiều, không thể kể được
gian truân:
khó khăn vất vả
nâng niu:
bảo vệ rất cẩn thận, sợ dễ vỡ, dễ hỏng
Em hãy chọn một trong những từ thích hợp in nghiêng ở trên
để điền vào các câu dưới đây cho đúng!
Từ hai
năm nay, anh Thành làm việc
....................................... là phiên dịch.
......................................... của tác giả là
thời kỳ rất khó khăn.
Nam mời
bạn gái nhảy, nhưng cô ấy đã
.........................................................
Mình
bận quá, không đến được chỗ bạn, mong bạn
............................... nhé!
Con
đường xây dựng đất nước tươi đẹp còn rất
.............................................
Hãy đốt
nến đi, cho có không khí
................................................ của Nô-en.
Sau
nhiều năm mỗi người một ngả, gia đình Hồng lại được
..........................
Kỷ niệm
của thời còn trẻ cần được
................................................................
Câu
hỏi bàn luận về bài đọc
1.
Quê hương Việt nam của
chúng ta đã có truyền thống bao nhiêu năm? Ai là người dựng
nước đầu tiên?
- Tại
sao người ta lại nói :”Người du mục là người không có
quê hương”?
- Tại
sao lại có một số lượng lớn người Ðức phải sống ở các
nước đông Âu?
- Tại
sao khi trở về Ðức, người ta thường không được chấp nhận
để hoà đồng với xã hội Ðức?
- Là
những người sống ở nước ngoài, em phải làm những điều cụ
thể gì để có trách nhiệm với quê hương?
- Em
đã xa quê hương bao lâu rồi? Em nhớ nhất những đặc điểm
gì của quê hương em?
- Em
hãy phân tích câu văn sau:”
Sau khi đã thoả thuận với vợ,
chồng cô
ở
lại CHLB Ðức
nhờ một chuyến du lịch năm
1977” 4 thành phần gạch
dưới là những thành phần gì?
- Em
hãy nêu chủ ngữ của tất cả các câu trong đoạn đầu bài
đọc (dòng 1- dòng 8)! . Nếu là câu ghép, có thể có nhiều
chủ ngữ.
Hướng dẫn:
Ðiều
kiện để hoà đồng vào một xã hội khác không phải là yếu tố
huyết thống (cùng dòng máu) quyết định , mà là yếu tố văn
hoá. Tức là: Nếu người ta thông hiểu được văn hoá, phong tục
tập quán, nếp nghĩ và cách làm việc của người sở tại, người
ta sẽ hoà đồng vào xã hội mới dễ hơn nhiều. Dù là người Ðức,
nhưng họ đã mấy thế hệ không sống ở Ðức, nên sự hoà đồng sau
khi tái thống nhất vấp phải những vấn đề văn hoá.
Nếu
người Việt sống ở nước ngoài không biết tiếng Việt, không
hiểu truyền thống Việt, không hiểu văn hoá Việt ... thì khi
trở về Việt nam, họ có khác gì những người Ðức trong câu
chuyện kể trên?
Chính tả
Những
từ (gạch dưới) sau đây viết
tr
Họ đã
phạm một sai lầm trầm trọng.
Kẻ gian
thường trà trộn vào đám đông để lợi dụng sơ hở của
người mua hàng.
Vì lo
bài thi ngày mai, em trăn trở mãi không ngủ được.
Do cơn
đau tim đột ngột, cụ già ra đi không một lời trăng trối.
Vì lười
học, trầy trật mãi bạn Liêm mới đậu tốt nghiệp phổ
thông.
Hai
nước hội đàm để giải quyết tranh chấp ở vùng biên
giới.
Hãy đặt cho mỗi từ sau đây một câu tương tự!
Trơ trọi, tròn trùng trục, truyền đạt, truyện ngắn, trình
độ, trĩu quả, triển vọng, trí tuệ, trình bày, trừng phạt,
trơn tru, trò chơi, trợ cấp, trung bình, trực thăng, trận
đấu, trồng trọt, trốn tìm, trôi chảy, trụ sở