Bài 19 - Quan hệ trong gia đình - họ hàng
|
|
I.
Các tình huống hội thoại
1. Thăm
một gia đình ở nông thôn
CHỦ NHÀ : |
Mời các anh, các chị vào chơi. Các anh các chị ở đâu về thế? |
SINH VIÊN: |
Chào bác, chào anh chị, chào các cháu. Chúng cháu ở Hà Nội về
ạ. |
CHỦ NHÀ : |
Mời các anh ngồi. Tôi xin giới thiệu, đây là mẹ tôi. Còn đây là
con trai cả của tôi; đang chơi ở ngoài sân là hai đứa cháu nội.
Gần như đủ cả gia đình, chỉ thiếu bà nhà tôi, đang đi cấy. |
SINH VIÊN: |
Chúng cháu chào cụ. Dạ thưa, năm nay cụ thọ bao nhiêu rồi ạ? |
CHỦ NHÀ : |
Cám ơn các cháu, lão đã ngoài tám mươi rồi. |
SINH VIÊN: |
Thế mà cụ còn khoẻ quá! |
2.
Hỏi thăm về gia cảnh
HELEN: |
Hà ơi! Bố chị Lan mất lâu chưa? |
HÀ : |
Tội nghiệp, bố chị ấy mất khi chị ấy mới lên mười. Mẹ chị Lan
lúc ấy còn rất trẻ, không những trẻ mà còn rất có duyên, rất đẹp,
nhưng bà ở vậy nuôi con, không chịu đi bước nữa. |
HELEN: |
"Đi bước nữa" nghĩa là sao hả Hà? |
HÀ : |
Nghĩa là lấy chồng khác, cũng có khi gọi là "tái giá" đấy. |
HELEN: |
Thế chị ấy có anh em gì không? |
HÀ : |
Có, chị ấy còn có một đứa em trai, năm nay đã ngoài hai mươi rồi,
đang học ở trường Đại học Bách khoa, năm thứ tư. |
HELEN: |
Nghe nói chị Lan sắp lấy chồng phải không? |
HÀ : |
Ừ, chị ấy cũng đã gần ba mươi rồi. Người Việt Nam thường nói:
Trai ba mươi tuổi đang xoan, gái ba mươi tuổi đã toan phận già.
|
3.
Vợ chồng Lan và con về thăm gia đình
LAN (gõ
cửa) |
Tiếng trong nhà: |
Ai đấy?
|
LAN: |
Con đây. Mẹ ơi! Con về thăm mẹ đây. |
BÀ CỤ
(mở cửa): |
Lan! Con đã về! Ồ, lại cả cháu của bà nữa. |
CHÁU BÉ: |
Cháu chào bà. |
BÀ: |
Vào đây, vào đây. Nào bà xem cháu bà lớn bằng ngần nào nào. |
LAN: |
Mẹ ơi! Nhà con cũng về thăm mẹ đấy. |
BÀ: |
Đâu? Anh ấy đâu? |
LAN: |
Nhà con phải đi chuyến tàu chiều vì sáng nay anh ấy còn phải làm
nốt một vài việc ở cơ quan. Em Long đi đâu mẹ? |
BÀ: |
Nó vào trường để nhận bằng tốt nghiệp. |
II. Ghi chú ngữ pháp
1. Các
tính từ "đông,
đầy, thiếu, đủ..."
chỉ lượng số phiếm định, thường làm vị ngữ.
Ví dụ:
- Gia đình đủ
người.
- Tàu
đông khách.
-
Lớp học còn thiếu bàn .
Chú ý:
Các tính từ thuộc
nhóm này thường gặp là
đầy, vơi, vắng, thưa, nhiều, ít.
2.
Khi: Danh từ thời gian, dùng để cấu tạo thành phần trạng ngữ chỉ
thời gian trong câu đơn hoặc câu phụ, chỉ thời gian trong câu ghép (cùng
với "thì" tạo thành cặp liên từ "khi...thì...".
Ví dụ:
- Bố chị ấy mất khi chị ấy lên mười.
-
Khi chị ấy lên mười thì bố chị ấy mất.
-
Anh ấy gọi điện thoại cho tôi khi tôi còn đang ngủ.
-
Khi còn ở Mỹ tôi chưa biết gì về Việt Nam cả.
Chú ý:
Nói chung có thể
thay khi bằng lúc nhưng lúc cụ thể hơn.
3.
Ở: Giới từ, nối thành phần trạng ngữ chỉ nơi chốn với câu chính, trả
lời cho câu hỏi "ở đâu?".
Ví dụ:
Đang chơi ở ngoài sân.
Cũng có thể
dùng để biểu thị khoảng cách giống như từ trong kết hợp
"từ..đến", "từ...ra".
Ví dụ:
- Chúng cháu ở Hà Nội về thăm quê.
-
Anh ấy ở quê ra chơi.
-
Chúng tôi mới ở Pháp sang Việt Nam.
4. "Không
những... mà còn..." nối hai yếu tố của vị ngữ có quan hệ liên đới
với nhau.
Ví dụ:
- Mẹ chị ấy không
những trẻ mà còn rất có duyên.
- Chị Liên
không những biết nấu ăn mà còn biết cả may vá nữa.
- Trời không
những mưa mà còn gió nữa.
Chú ý:
- Không những
có thể thay bằng không chỉ.
-
Khi dùng kết cấu này, cuối câu, thường có thêm từ nữa.
III. Bài đọc
Sự
tích bánh chưng, bánh giầy
Vua
Hùng có hai mươi người con trai. Khi đã già, Vua muốn truyền ngôi cho
con nhưng chưa biết chọn ai.
Một hôm Vua gọi
tất cả các con đến và bảo: "Tết năm nay trong các con nếu ai mang đến
tặng ta một món ăn mà ta vừa ý thì ta sẽ truyền ngôi cho người đó".
Các con của Vua
Hùng ai cũng muốn được cha truyền ngôi cho mình nên cố gắng đi tìm các
món ăn ngon, lạ để dâng lên Vua.
Trong số các
con của Vua Hùng có một người tên là Lang Liêu. Lang Liêu sống ở nông
thôn, quanh năm trồng lúa, đậu, khoai và nuôi gà lợn để sống.
Lang Liêu nghĩ,
Vua không thiếu gì của ngon vật lạ nên tốt nhất là chế biến những thứ do
mình làm ra để dâng Vua. Vì thế anh lấy gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn để
làm bánh. Bánh ấy ở bên trong là đậu xanh, thịt lợn, bên ngoài là gạo
nếp được gói bằng lá dong. Bánh hình vuông, tượng trưng cho mặt đất, cho
vào nồi đầy nước rồi đun một ngày. Lang Liêu đặt tên bánh là bánh chưng.
Anh lại lấy gạo nếp nấu chín rồi giã nhuyễn làm bánh giầy. Bánh giầy
hình tròn, tượng trưng cho mặt trời.
Tết đến, các
con của Vua Hùng đều mang quà dâng lên Vua. Khi ăn các món ăn của các
con khác, Vua không thấy có gì đặc biệt vì hàng ngày Vua đã ăn quá nhiều
các món ăn ngon; nhưng khi ăn đến món ăn của Lang Liêu thì Vua thấy rất
ngon và rất lạ. Vua hỏi, Lang Liêu nói để Vua biết vì sao anh lại làm
bánh chưng, bánh giầy để dâng cha. Vua rất vui vì món ăn của Lang Liêu
không những rất ngon mà còn có ý nghĩa nữa. Vì thế Vua quyết định truyền
ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, nhân dân
Việt Nam có tục là khi Tết đến, nhà nào cũng gói bánh chưng và làm bánh
giầy.
相关文章:
|