I. Các tình huống hội thoại
1.
Trong quán giải khát
Chủ quán: các anh, chị dùng gì ạ?
Jack (hỏi Harry và Helen): Mình uống nước cam, các cậu uống gì?
Harry: Mình không thích nước cam. Mình uống Coca - Cola.
Helen: Mình cũng uống nước cam nhưng không đường.
Jack (với chủ quán): Bác cho hai cam vắt, một có đường, một không
đường và một Coca - Cola.
Chủ quán: Có ngay!
2. Hà và gia
đình mời ba bạn đến nhà
ǎn cơm Việt Nam
Bên bàn ǎn
Mẹ Hà: Các cháu ǎn cơm đi! Chúc các cháu ǎn ngon!
Các bạn: Cám ơn bác ạ. Mời bác cùng ǎn cơm với chúng cháu.
Mẹ Hà: Bác chưa ǎn bây giờ. Các cháu với Hà cứ ǎn cơm trước đi.
Hà: Mời các bạn tự nhiên nhé. Chỉ có các món ǎn đơn giản và bình dân
thôi.
Đây là món nem rán, còn gọi là nem Sài Gòn, ǎn với rau sống. Đây là
món cá rán. Còn đây là món gà hầm. Món này là giò lụa.
Helen: Món nem rán ngon lắm, ở Pháp mình đã được ǎn rồi. Các bạn
biết không, trong từ điển Larousse 1990 mới có thêm từ nem đấy.
Jack: Thật à?
Harry: Thế mà một người Việt Nam ở Mỹ lại bảo đó là món chả rán.
Hà: Cũng đúng. ở miền Nam người ta gọi là chả rán, ở miền Bắc gọi là
nem. Các bạn dùng đũa quen rồi chứ? Có cần dao, dĩa không?
Jack: Không cần đâu! Phải tập ǎn bằng đũa cho quen chứ!
Helen: Hà nấu ngon lắm. Khi nào Hà dạy mình nấu một số món ǎn Việt
Nam nhé.
Hà: Sẵn sàng.
3. Hà và Helen
đi mua hoa
Helen
(với người bán hoa): Phǎng bán thế nào chị?
Người bán hoa: Chị mua
đi, hai trǎm một bông.
Helen: Chị chọn 5 bông thật tươi.
Hà: Sao Helen không mua hồng?
Helen: Mình không thích lắm, hồng chóng tàn. Hà này, hoa trắng và
cao kia có phải tiếng Việt gọi là hoa huệ không? Sao ít thấy người
mua?
Hà: Đúng đấy! ở Việt Nam người ta thường mua hoa huệ để thờ cúng.
Helen: Thế à?
Người bán hoa: Hoa của chị đây.
Helen: Chị đổi giúp bông trắng này lấy bông đỏ... Xin gửi tiền chị.
4.
Đi xem biểu diễn âm nhạc
Bắc: Tối nay có đi dự cuộc thi ca nhạc nhẹ tổ chức tại Cung vǎn hoá
Việt - Xô không?
Nam: Không, mình không thích lắm.
Bắc: Sao thế! Cậu chỉ thích nhạc cổ điển thôi à?
Nam: Cổ điển hoặc dân ca cũng được. Hôm nào có biểu diễn ca nhạc dân
tộc mình rủ Harry đi nhé.
Bắc: ừ, Harry, Jack và cả Helen đều rất thích dân ca Việt Nam.
II. Ghi chú ngữ pháp
1. Trạng ngữ nơi chốn: là thành phần chỉ
rõ địa
điểm, nơi chốn hành động xẩy ra.
Ví dụ: - ở Pháp mình đã được ǎn rồi.
- Cuộc thi ca nhạc nhẹ tổ chức tại Cung vǎn hoá Hữu nghị Việt - Xô
Trạng ngữ nơi chốn thường đặt ở cuối hoặc ở đầu câu và thường nối
với thành phần chính bằng các từ ở, tại, trong, ngoài, trên, dưới.
Câu hỏi: ở đâu, ở nơi (chỗ) nào?
Ví dụ: - Chị đã được ǎn nem ở đâu?
- Cuộc thi ca nhạc nhẹ tổ chức ở đâu?
- Công nhân làm việc ở đâu?
- Anh học tiếng Việt ở đâu?
2. Có thể, muốn, cần, phải:
Là các động từ tình thái, thường đặt trước động từ chính hoặc danh
từ để chỉ tình thái của hành động. "Có thể" chỉ khả nǎng, muốn chỉ
một nhu cầu, "cần, phải" chỉ sự bắt buộc, sự cần thiết của hành
động.
Ví dụ: - Có cần dao, dĩa không?
- Phải tập ǎn bằng đũa cho quen.
- Anh có thể trả lời rõ hơn không?
3. Cũng,
đều: là các phó từ luôn luôn đặt
trước động từ, tính từ để biểu thị sự đồng nhất về hành động, tính
chất của các chủ thể.
Ví dụ: - Jack uống nước cam, Helen cũng uống nước cam.
- Gọi nem là chả rán cũng đúng.
- Harry, Jack và Helen đều rất thích dân ca Việt Nam.
Ghi chú: Khi dùng đều chủ ngữ bao giờ cũng là số nhiều.
Ví dụ:
- Họ đều là người Anh.
III. Bài
đọc
Đi
ǎn đặc sản
Chiều chủ nhật vừa rồi chúng tôi rủ nhau đi ǎn đặc sản.
Số nhà 202 phố Huế là cửa hàng đặc sản nổi tiếng. Mọi người đều biết các
món ǎn ở đây không ngon lắm và đắt nhưng họ vẫn rất thích đến vì ở đây
có chỗ ngồi rất đẹp. Ngồi ở ban công tầng 2 nhìn xuống đường phố Huế
nườm nượp xe cộ, cảnh đẹp như ngồi xem phim vậy.
Ăn chè đậu ở phố
Hàng Bạc
Một Việt kiều về nước, vào một cửa hàng nhỏ, cũ xưa, đồ đạc bày ở đây
dường như có từ lâu đời. Không ai nghĩ đó là một cửa hàng bán chè đậu.
Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc, dáng đi thong thả, nhẹ nhàng. Cụ chỉ
chiếc ghế ở giữa nhà và nói với khách:
- Mời cô ngồi! Cô ǎn chè đậu hay thập cẩm?
Cụ vừa nói vừa lấy khǎn lau tủ kính, trong tủ kính có bày những đĩa xôi
vò...
Bà khách ngồi xuống, bà nhìn cǎn phòng và cảm thấy một không khí quen
thuộc, ấm áp quanh mình.
Cụ chủ quán bưng ra một chén chè nụ đặt trên một chiếc đĩa cổ.
- Mời cô uống nước đi!
Bà khách đỡ chén nước từ tay cụ:
- Cháu ở Pháp về. Hôm nay đi thǎm phố phường. Cụ ơi! Phố Hàng Bạc cũng
ít thay đổi phải không cụ?
- Thay đổi nhiều cô ạ! Cô uống nước đi rồi ǎn chè Hà Nội. ở Paris có ai
bán chè không cô?
- Thưa... có ạ! Nhưng ǎn chè đậu ở Paris không hợp. Con chẳng bao giờ
nghĩ rằng ở Hà Nội vẫn còn những quán chè xưa cũ như thế này. Quý lắm cụ
ạ!
Bà cụ chủ quán và người khách đều cảm động.
相关文章:
|