I. Hội thoại
LIÊN: |
- Hè này em định đi chơi
đâu không? |
NGA: |
- Em
chưa hề định gì cả. Em có thời gian
đâu
hả chị. Em đang phải ôn thi mà. |
LIÊN: |
- Em ôn thi đại học à? |
NGA: |
- Vâng, em định thi 3
trường. |
LIÊN: |
- Cái
Hường cũng học bằng em mà nó có phải thi
đâu.
Hình như nó đang đi nghỉ mát thì phải. |
NGA: |
- À, nó được lên thẳng vì
nó là học sinh giỏi, điểm thi tốt nghiệp trung học lại cao. |
LIÊN: |
- Nó giỏi thế à? |
NGA: |
- Giỏi gì. Sức học của em
và nó cũng một chín một mười nhưng không hiểu tại sao điểm của
nó luôn cao hơn em. |
LIÊN: |
- Thôi,
em không phải thanh minh
đâu.
Học cẩn thận vào không thi trượt đấy. |
NGA: |
- Làm
sao mà em trượt
được.
Chị không phải lo
đâu.
Dạo này em chăm lắm, học ngày, học đêm. |
LIÊN: |
-
Chăm
gì.
Thỉnh thoảng chị vẫn thấy em đi chơi ngoài đường. |
NGA: |
- Đôi khi
em cũng phải giải trí chứ có phải em đi chơi nhiều
đâu. |
LIÊN: |
- Thế nếu trượt thì em có
thi lại không? |
NGA: |
- Có chứ. Nếu trượt thì ở
nhà, ôn tập tiếp năm sau thi lại. Năm ngoái anh Tùng bị trượt
đấy, chị có biết không? |
LIÊN: |
- Thế à? Chị không biết
gì hết. Chị tưởng nó chịu khó học lắm. |
NGA: |
- Chịu khó gì. Đến
kỳ thi mà anh ấy đi chơi suốt, chẳng học gì cả. Em
chưa thấy ai như thế bao giờ. |
LIÊN: |
- Ừ, học
kiểu ấy thì làm sao mà đỗ
được.
Thôi, chị về đây. Em học đi nhé. |
Bảng từ |
ôn thi
lên thẳng
sức học
thanh minh |
giải trí
học sinh giỏi
trung học
kỳ thi |
II. Chú thích ngữ pháp
* Một vài kết cấu phủ định
1. Cả, hết
Trong những câu phủ định, nhóm từ
này cũng thường đứng ở cuối câu nhấn mạnh ý phủ định hoàn toàn. Chúng
được dùng dưới dạng:
Chủ
ngữ + chẳng + động từ + từ nghi vấn +
cả l hết |
Ví dụ: - Hôm nay em chẳng ăn gì
cả.
- Tối qua tôi chẳng đi đâu
hết.
2. Đâu
a.
không
chưa
+
động từ +
đâu
chẳng |
Đâu
dùng ở cuối câu phủ định để nhấn mạnh ý phủ định.
Ví dụ: - Chúng ta đi đi, anh ấy không đến
đâu.
- Cô cứ tin tôi, tôi không lừa cô
đâu
b.
hoặc
Đâu
dùng cuối câu khẳng định để xác nhận ý phủ định, bác bỏ ý kiến của người
khác hoặc những điều không phải là sự thật.
Ví dụ: - Có phải tôi đến sớm nhất
dâu.
= Tôi không đến sớm nhất.
- Anh ấy có nói
đâu.
= Anh ấy không nói.
3.
Đây là từ để hỏi được dùng để phủ
định.
Ví dụ: - Bài này khó quá.
- Khó gì. Tôi
chỉ làm mất năm phút thôi
= Không khó đâu.
4.
Làm
sao mà (có thể)
+
động từ +
được
tính từ |
Kết cấu này thường dùng để nhấn
mạnh một hành động khó có thể thực hiện được.
Ví dụ: - Từ đây đến nhà tôi xa lắm. Làm sao mà có thể
đi bộ
được.
= Không thể đi bộ.
- Cô ấy nói nhanh quá. Làm sao mà tôi
hiểu
được.
= Tôi không thể hiểu
được.
Trong kiểu câu này, chủ ngữ có thể
đứng ở đầu câu hoặc trước động từ
III. Bài luyện
1. Dùng câu phủ định với “cả, hết”
để trả lời câu hỏi
a. Từ khi đến Hà Nội chị đã đi đâu
chưa?
b. Hôm nay chúng ta có bài tập
nào?
c. Chị gặp ai ở nhà cô Lan?
d. Hôm qua, Minh có nói gì với anh
không?
e. Ai dạy chị bài hát này?
f. Em thích làm loại bài tập nào?
Nghe, dịch hay viết?
g. Trong băng nhạc này có bài hát
về Hà Nội không?
2. Dùng kết cấu ''câu khẳng
định
+
đâu '' để trả
lời phủ định:
Mẫu:
- Chân nó bị đau à?
→ - Chân nó có đau đâu.
a. Mùa đông ở Hà Nội rất lạnh phải
không?
b. Em có học ở đây à?
c. Nó viết thư cho anh à?
d. Chị ấy nói dối anh phải không?
e. Chị ấy đi được xe phải không?
f. Anh Thi bỏ được thuốc lá rồi à?
g. Lớp học này có miễn phí à?
h. Ông ấy vào thành phố Hồ Chí
Minh rồi à?
i. Mắt bà ấy kém à?
3. Dùng kết cấu “có... đâu” hoặc “có phải... đâu” để trả
lời phủ định:
Mẫu:
- Chủ nhật tuần trước chị đi Sầm Sơn à?
→ - Có phải Sầm Sơn
dâu. Chủ nhật tuần trước tôi đi Hạ Long.
a. Cô ấy vay anh 500.000 đồng từ
năm ngoái à?
b. Họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ bức tranh
này.
c. Tối qua chị đi xem kịch à?
d. Chị mua cái áo này à?
e. Lan đang học bài, đừng làm
phiền nó.
f. Nó đang đến kia kìa, phải
không?
g. Cái lọ hoa này làm bằng pha lê.
h. Cô mặc áo tím là vợ anh Nam
phải không?
i. Món này cay quá.
k. Bố em giúp em làm bài tập à?
4. Dùng “làm sao mà ...
được”'
để
thay thế cho ''không thể... được”
trong các câu sau:
Mẫu: - Tôi không thể dịch được bài
này.
→ - Làm sao mà tôi dịch
được bài này.
→ - Tôi dịch được bài này làm
sao
được.
a. Chị ấy viết xấu quá. Tôi không
thể đọc được.
b. Bà ấy già rồi nên không thể làm
việc nặng được.
c. Anh ấy không thể đi xe máy ở
đường phố Hà Nội.
d. Món này chán quá, tôi không thể
ăn được.
e. Anh ấy ích kỷ lắm. Tôi không
thể làm việc cùng với anh ấy được nữa.
f. Cô ấy nói thầm với tôi. Người
khác không thể nghe được đâu.
5. Dùng kết cấu ''làm sao mà ...
được”' để nói trong các tình huống sau:
Mẫu:
- Quả bóng ở trên cao. Em ấy rất thấp.
- Em ấy làm sao mà lấy
được
quả
bóng.
a. Em ấy học lớp ba. Anh ấy đưa
nhầm bài toán lớp bảy cho em.
b. Hà Nội cách thành phố Hồ Chí
Minh 1780 km. Anh ấy nói có thể đi ô tô từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí
Minh trong hai ngày.
c. Chị ấy mới học tiếng Việt hai
tuần. Một người nhờ chị ấy dịch một bài báo sang tiếng Việt.
d. Cái va li ấy nặng 100 kg. Mẹ
muốn tôi mang nó lên tầng hai.
e. Anh ấy làm sai lời hứa lần thứ
năm. Anh ấy muốn cô ấy không giận.
6. Sử dụng tính từ và ''gì'' để
phủ định:
Mẫu: - Phòng này rộng quá
nhỉ. (12 m)
→ - Rộng gì. Phòng này
chỉ có 12 m thôi.
a. Quyển từ điển này tốt
lắm. (nhiều từ sai)
b. Chị ấy có áo mới à? (mua
năm kia)
c. Ở cơ quan đó lương của nhân
viên cao lắm. (500.000 đồng/tháng)
d. Anh đã xem triển lãm mới
chưa? Tranh ở đó rất đẹp. (xem rồi)
e. Anh ấy rất giỏi tiếng
Anh. (học ba tháng)
f. Ở đó tối lắm. (mới lắp
đèn)
g. Hồ đấy sâu lắm, không
tắm được đâu. (sâu nhất 20 m)
h. Cô cho nhiều bài quá. (7 bài)
7. Thay cách phủ định trên bằng
cách phủ định ở cấu trúc “có... đâu”.
Mẫu:
- Phòng này rộng
quá nhỉ. (12 m)
- Rộng gì.
→ - Có rộng
đâu,
chật
lắm.
IV. Bài đọc
Lớp học đặc biệt
Tên tuổi của GS Dương Thiệu Tống
được giới trí thức Việt Nam biết đến khá nhiều. Năm nay giáo sư đã hơn
bảy mươi tuổi và về hưu cách đây năm năm nhưng ông vẫn suốt ngày say sưa
nghiên cứu những tài liệu mới nhất về khoa học giáo dục mà bạn bè từ
khắp nơi trên thế giới gửi đến. Sở dĩ như vậy là vì ông nghĩ, ông luôn
luôn phải học, học đến khi nào không thể học được nữa. Đó cũng là một
đòi hỏi bức thiết với bất cứ thầy giáo nào. Người nào không hiểu thì
không thể là thầy giáo.
Nếu ai nói rằng những điều đó chỉ
tồn tại trên lý thuyết thì họ đã nhầm. Nó được chứng minh bằng một lớp
học trong căn nhà nhỏ của vị giáo sư già. Theo đề xuất của giáo sư, khóa
học đầu tiên đã được khai giảng từ năm 1982. Mục tiêu của lớp là nhằm bổ
sung những kiến thức khoa học mới mà chưa kịp đưa vào chương trình đào
tạo chính quy.
Tham dự lớp học này hầu hết là
những cán bộ giảng dạy trẻ ở một số trường đại học. Hàng tuần, vào sáng
thứ năm, họ tập trung ở nhà giáo sư Dương Thiệu Tống. Giáo sư sẽ trình
bày một vấn đề nào đó và cả lớp cùng thảo luận.
Bao nhiêu năm nay lớp học này tồn
tại hoàn toàn miễn phí và hoàn toàn tự nguyện. Giáo sư Dương Thiệu Tống
chỉ có một mong muốn duy nhất, khi nào ông còn sống và còn nói được thì
lớp học này còn tồn tại. Những thầy giáo trẻ đến đây cũng không có một
mục đích nào khác ngoài việc tiếp thu thêm những kiến thức mới. Họ không
nghĩ đến bằng cấp hoặc những lợi ích khác vì tất cả những cái đó làm sao
mà tìm thấy được ở lớp học này.
Khóa học đầu tiên của Đại học
Harvard tại Việt Nam
Vào cuối tháng này, khóa học đầu
tiên của Đại học Harvard sẽ được tổ chức ở Việt Nam trong phạm vi chương
trình Fulbright, nhằm bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý. Theo kế
hoạch, khóa học này sẽ được thực hiện trong một năm (hai học kỳ) với các
môn học về kinh tế, thẩm định dự án đầu tư, chính sách thương mại...
Điều đặc biệt là chương trình học và giáo sư hướng dẫn đều là của Đại
học Harvard.
Để chuẩn bị cho khóa học, ký túc
xá của trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã được đầu tư
200.000 USD để nâng cấp thành một Đại học Harvard nhỏ với diện tích 610
m, gồm 7 phòng học và làm việc đạt tiêu chuẩn quốc tế. Học viên tốt
nghiệp khóa học này sẽ được Đại học Harvard cấp bằng tốt nghiệp theo
chương trình Fulbright.
Trong vài năm qua, chương trình
này đã tuyển chọn những người có khả năng chuyên môn trong quản lý,
giảng dạy và khả năng ngoại ngữ để đưa sang Mỹ đào tạo các bằng cao học
và tiến sĩ. Nhưng bắt đầu từ năm nay, chương trình Fulbright sẽ chuyển
sang một hình thức hoạt động mới: đào tạo tại chỗ ở Việt Nam.
Bảng từ |
trí thức
say sưa
đòi hỏi
bức thiết
tồn tại
lý thuyết
chứng minh
đề xuất
khóa học
khai giảng
mục tiêu |
bổ sung
chính quy
trình bày
thảo luận
miễn phí
tự nguyện
bồi dưỡng
dự án
cao học
tiến sĩ
phạm vi |
V. Bài tập
1. So sánh với bài
đọc thì
những thông tin được đưa ra dưới đây đúng hay sai? Nếu sai thì bạn hãy
chữa lại cho đúng:
a. Từ khi về hưu giáo sư Dương
Thiệu Tống luôn luôn đọc lại những tài liệu ông đã sưu tầm trong suốt
quá trình giảng dạy.
b. Tham dự lớp học của ông bao gồm
nhiều cán bộ giảng dạy ở mọi lứa tuổi.
c. Những tài liệu về khoa học mới
nhất mà giáo sư có được là do ông đặt mua.
d. Ông là người đề xuất khai giảng
lớp học từ năm 1982.
e. Những cán bộ giảng dạy trẻ tham
dự lớp học ở nhà của ông có rất nhiều mục đích.
f. Chương trình đào tạo chính quy
chưa kịp bổ sung những kiến thức mới.
g. Khóa học đầu tiên của Đại học
Harvard tổ chức tại Việt Nang sẽ được các giáo sư của Đại học Harvard và
giáo sư Việt Nam hướng dẫn.
h. Khi chọn người để đưa sang Mỹ
đào tạo, chương trình này chỉ chọn những người có khả năng tiếng Anh.
i. Những học viên tốt nghiệp khóa
này sẽ được trường Đại học Harvard cấp bằng.
2. Trả lời những câu hỏi sau:
a. Giáo sư Dương Thiệu Tống quan
niệm nghề giáo viên là nghề như thế nào? Bạn có quan niệm như thế không?
Hãy nói thêm về những quan niệm của bạn?
b. Lớp học ở nhà giáo sư có gì
khác những lớp học bình thường?
c. Theo bạn giáo sư Dương Thiệu
Tống có mong muốn gì khi tổ chức lớp học này?
d. Qua bài đọc, bạn biết được gì
về giáo sư?
đ. Những học viên tham dự lớp học
đặc biệt ấy là người như thế nào?
e. Chương trình Fulbright được tổ
chức nhằm mục đích gì?
g. Cơ sở vật chất của trường đã
được chuẩn bị như thế nào?
h. Theo bạn, hình thức đào tạo tại chỗ này có ưu điểm gì?
3. Điền từ vào chỗ trống:
khai giảng |
trình bày |
chương trình đào tạo |
bằng cấp |
chuyên môn
|
thảo luận |
đề xuất |
|
lý thuyết |
a. Anh ấy không thích làm những
công việc không đúng.....................
b. Ở Việt Nam, các trường học
....................... vào tháng 9.
c. Khi học ở lớp người ta học
nhiều ....................... nhưng khi làm việc, người ta phải thực
hành nhiều.
d. Chúng tôi thích
....................... hơn học lý thuyết.
e. Trong cuộc họp, từng người đứng
lên và ....................... ý kiến.
f. Ở nước bạn, khi xin việc, người
ta có đòi hỏi ............... không?
g. ....................... ở đại
học chính quy và đại học không chính quy giống nhau.
4.
Điền từ vào chỗ
trống:
bằng cử nhân |
trí thức |
kiến thức |
lý tưởng |
miễn phí |
thi học kỳ |
|
sức học |
|
a ........................ là
những người làm việc bằng trí óc.
b. ......................là bằng
dành cho những người đã tốt nghiệp đại học.
c. Lớp học mà trong đó các học
viên không phải trả tiền học gọi là lớp học .......................
d. Những mục đích cao đẹp mà người
ta luôn luôn cố gắng để đạt được gọi là ....................:..
e. ........................ là
những điều hiểu biết mà người ta có được do học tập hoặc do từng trải.
f. Khả năng học tập còn gọi là
.......................
g. Kỳ thi ở cuối mỗi học kỳ là
.......................
5.
Hãy nghe một tin ngắn về giáo
dục và
điền những từ còn thiếu vào chỗ trống :
Năm học này chính phủ Nhật sẽ cấp
nhiều (1) ....................... cho sinh viên và (2)
....................... Việt Nam sang học tại Nhật. Các ngành (3)
....................... gồm tiếng Nhật, luật, kinh tế (4)
....................... Tuy nhiên số lượng học bổng cụ thể chưa được (5)
....................... chính thức.
(6) ....................... Nga
cũng cấp 30 học bổng mỗi năm cho sinh viên Việt Nam học ở các trường (7)
....................... nước này. Trong khi đó, (8)
....................... Úc vẫn tiếp tục (9) .......................
khoảng 150 học bổng du học cho sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam,
theo (10) .................. ký từ ba năm trước.
6. Nghe bài ''Một số thành tựu của ngành giáo
dục Việt Nam''
7. Dựa vào thông tin bài nghe,
anh chị hãy cho biết những con số dưới
đây là số gì?
20.000 |
356.310 |
700.000 |
42 |
10.047.564 |
191 |
16.724 |
750.000 |
5.207.443 |
2,5 triệu |
600 |
8.000 |
8. Hãy viết về mười yếu tố mà
theo bạn sẽ quyết
định sự thành
công trong học tập, sau đó giải thích lý do.
9. Hãy viết về một thầy giáo
(hoặc cô giáo) mà
đã để lại cho bạn
ấn tượng sâu sắc.
VI Bài đọc thêm
Vấn đề giáo dục ở một số nước châu
Á
Khi giải thích về thành công ở một
số nước châu Á, tất cả các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng nền tảng của
chúng phụ thuộc vào chính nền giáo dục ở đây. Singapore, Nhật Bản, Hàn
Quốc rất chú ý đến việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Bên cạnh việc thúc đẩy giáo dục
trong các trường đại học, họ còn đầu tư nhiều cho giáo dục tiểu học. Các
trường ở đây áp dụng phương pháp giáo dục tâm lý và làm cho học sinh tin
rằng bất kỳ ai cũng có thể thành công nếu chịu khó học tập, khiến các
học sinh đua nhau học.
Một số nguyên nhân khác cũng góp
phần làm nên sự thành công của giáo dục Đông Á. Trẻ em ở đây rất chăm
chỉ. Các môn học lý thuyết luôn được thực hành. Phiếu điểm của trẻ được
gửi về gia đình hàng ngày để phụ huynh học sinh, thày hiệu trưởng và
giáo viên chủ nhiệm có thể phối hợp giám sát, động viên sự tiến bộ của
trẻ. Các giáo viên cũng được kính trọng và trả lương cao hơn các đồng
nghiệp nước khác.
Chưa bằng lòng với những thành tựu
giáo dục đạt được trong những năm qua, hiện nay các nước này đang quyết
tâm nâng cấp và hoàn thiện hệ thống giáo dục. Nhằm mục tiêu trên, giáo
dục sẽ tập trung vào những điểm sau:
Một là tăng cường tính độc lập và
sáng tạo trong tư duy của học sinh phổ thông và sinh viên cao đẳng, đại
học. Các môn học thuộc lòng sẽ giảm bớt. Những biện pháp đánh giá tư duy
độc lập của học sinh được tăng cường kể cả biện pháp được phép tham khảo
sách giáo khoa trong các kỳ thi và kiểm tra.
Hai là sử dụng công nghệ thông
tin. Giáo viên và học sinh đều được trang bị kiến thức cơ bản về tin học
và huấn luyện sử dụng máy vi tính để có thể dễ dàng tiếp cận với mạng
Intemet. Khi cần, họ có thể tra cứu tài liệu từ các trung tâm dữ kiện
lớn nhất thế giới. Hiện nay, ở nhiều trường học, học sinh đã có thể sử
dụng thành thạo máy tính, đĩa CD-ROM.
Ba là mở rộng đào tạo đội ngũ kỹ
sư đồng thời là những nhà quản lý Sinh viên tốt nghiệp các trường công
nghệ không chỉ thông thạo công nghệ thực hành mà còn nắm vững kiến thức
thuộc các lĩnh vực quản lý hành chính, luật pháp, kinh doanh. Những học
sinh xuất sắc ở các trường phổ thông sẽ được ưu tiên tuyển thẳng vào các
trường đại học danh tiếng.
VII. Từ ngữ thông tục và thành ngữ
1. Một chín một mười
Chín
và mười là
những số lượng xấp xỉ nhau. Vì vậy cụm từ này hay được dùng trong sự so
sánh tương đương, hơn kém không đáng kể.
Ví dụ:
a.- Mẹ xem quả táo nào to hơn.
- Bằng nhau, một chín một
mười.
b. - Anh thấy cái tủ này thế nào?
- Về hình thức so với cái kia
cũng một chín một mười nhưng cái này có lẽ tốt hơn.
2. Học tài thi phận
Câu nói này phản ánh một việc đã
từng có trong thực tế: những người học giỏi chưa chắc khi thi đã được
điểm cao. Cuộc sống có số phận và dường như việc thi cử cũng có số phận.
Lâu dần cách nói này hay được dùng để an ủi những người không đạt kết
quả trong các kỳ thi bất kể học giỏi hay kém.
Ví dụ: - Nó học dốt hơn mình mà điểm lại cao hơn mình.
Đúng là học tài thi phận.
- Thằng Minh học kém
nhất lớp mà lại đỗ cao, học tài thi phận có khác.
3. Học vẹt
Vẹt
là một loài chim
có thể nói bắt chước con người nhưng không hiểu gì cả. Vậy nên những học
sinh mà chỉ biết đọc thuộc lòng theo sách nhưng không hiểu gì cả thì bị
gọi là học vẹt.
Ví dụ: - Phương pháp giáo dục mới là không bắt học sinh
học vẹt.
- Em không thích học
vẹt.
相关文章:
|